Là nguyên tắc triết học chính trị cơ bản của mọi chế độ liên bang, nguyên tắc bổ trợ khuyến nghị rằng các quyết định được đưa ra phải thật gần với các bên liên quan nhất. Một nhóm cao hơn chỉ can thiệp để hỗ trợ cho những chức năng vượt quá khả năng của một nhóm nhỏ hơn.
Vào lúc mà toàn cầu hóa đã trở thành một hiện tượng không thể đảo ngược được, các Quốc gia-dân tộc dường như bị choáng ngợp bởi sự tập trung các quyền lực kinh tế. Làm thế nào các nền dân chủ của chúng ta, được sinh ra từ thực tiễn địa phương, lại có thể giải quyết nổi những vấn đề toàn cầu như cuộc khủng hoảng sinh thái, cuộc khủng hoảng hệ thống tài chánh toàn cầu và cuộc khủng hoảng xã hội bắt nguồn từ đó?
Về những vấn đề này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tái khẳng định tính thời sự của nguyên tắc bổ trợ: “Công ích đòi hỏi sự tôn trọng con người với các quyền cơ bản và bất khả nhượng và đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của con người. Công ích cũng đòi hỏi phúc lợi xã hội và sự phát triển của các nhóm trung gian khác nhau theo nguyên tắc bổ trợ.” (Laudato si’, LS 152). Vậy, nguồn gốc bổ trợ là gì? Đâu là nền móng của một nguyên tắc như thế? Ý nghĩa chính trị của nó là gì? Ba câu hỏi này sẽ là cấu trúc của ba phần trong bài này.
Một nguồn gốc lai tạp
Thời Trung Cổ chỉ dành cho quyền lực chính trị một vai trò bình định [dẹp yên giặc giã và các cuộc nổi dậy] và thống nhất, các nhóm khác làm thành xã hội đã có cấu trúc: gia đình trong giáo xứ, hội nghề nghiệp trong thị xã, thành phố trong đế chế… với một ý nghĩa hữu cơ được nhận định lý thuyết bởi các nhà thần học, đặc biệt là thánh Tôma trong đường hướng của Aristote. “Giáo hội hỗ trợ những thiếu thốn hiển thị nhất, đóng vai trò cứu trợ trong hầu hết các lãnh vực: vai trò sau này được giao cho Nhà nước (…). Theo một số tác giả, Giáo hội cũng được giao cho vai trò có thể can thiệp một cách hợp pháp vào công việc của quyền lực chính trị nếu vị vương giả đương thời tỏ ra bất tài hay yếu kém[1].”
Khái niệm hỗ trợ, cung cấp những thẩm quyền chuyên biệt cho các nhà cầm quyền, đã xuất hiện vào thế kỷ XVII ở cả Althusius và Locke. Althusius, nhà thần học Tin Lành Calvin rồi làm Quản Lý thành phố Emden, bênh vực cho mô hình xã hội hữu cơ thời Trung Cổ bằng cách dựa trên luật pháp Đức để bảo vệ các thị xã của Đế quốc Thần thánh. Người thứ hai, ông Locke, một thời là thư ký của Văn Phòng Thương Mại (Board of Trade), mô tả một xã hội cá nhân chủ nghĩa giống như những nhà tư sản người Anh tham gia trong các quan hệ kinh tế. Hai nhà tư tưởng bảo vệ quyền tự do trước chính quyền và khẳng định tính ưu việt của các cơ quan trung gian khi đối mặt với Nhà nước non trẻ. “Xã hội theo chủ nghĩa cá nhân của Locke sẽ nảy sinh ý tưởng thay thế những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển. Trong khi xã hội hữu cơ của Althusius sẽ cung cấp nền tảng cho nhà nước bổ trợ của những người Công giáo xã hội và, xa hơn, theo một cách hoàn toàn khác, của những người theo chủ nghĩa tự do chính thống của thế kỷ 20[2]”
Một nguyên tắc luật hiến pháp
Ý niệm hỗ trợ là ý niệm nền tảng của mọi chế độ liên bang, các thực thể tự trị chỉ ủy quyền những vấn đề họ không thể giải quyết được ở cấp của họ. Ở Thụy Sĩ, các tiểu bang đã ký kết một thỏa hiệp vào năm 1921 để chống lại sự thống trị của người Habsbourg. Tại Bắc Mỹ, các thuộc địa đã thống nhất vào năm 1643 và năm 1684 để đẩy lùi mối nguy thổ dân da đỏ và đối đầu với sự cạnh tranh của người Hà Lan. Trong tư tưởng chính trị Âu Châu, ý niệm một quốc gia bổ trợ được ủng hộ bởi xu hướng liên đới và thuyết nhân vị. Ở Đức, sau Đệ nhị Thế chiến, khái niệm này trở thành trụ cột mà quanh nó những thành viên theo khuynh hướng chủ nghĩa tự do và xã hội chủ nghĩa đạt tới một sự thỏa thuận chung để phân chia thẩm quyền giữa chính quyền liên bang (Bund) và các tiểu bang (Lander)[3]. Vào năm 1992, nguyên tắc bổ trợ được lấy lại cách rõ ràng trong hiệp ước Maastricht:
“Trong những lãnh vực không liên quan đến thẩm quyền độc chiếm, cộng đồng chỉ can thiệp nếu xét thấy phù hợp với nguyên tắc bổ trợ và trong chừng mực mà các mục tiêu hành động dự tính không thể thực hiện cách đầy đủ bởi những Bang thành viên và như vậy, có thể, vì lý do về chiều kích hay hậu quả của hành động dự kiến, được thực hiện tốt hơn ở một cấp khác của cộng đồng.[4]”
Diễn ngôn xã hội của Giáo hội Công giáo
Khái niệm bổ trợ xuất hiện trong thông điệp Tân sự (Rerum novarum, 1891) vào lúc mà những người Công giáo xã hội yêu cầu sự can thiệp của Nhà nước đối với những vấn đề xã hội tạo ra do quá trình kỹ nghệ hóa nhanh chóng[5]. Nguyên tắc này đã được Đức Giáo hoàng Piô XI hệ thống hóa trong thông điệp Tứ Thập niên (Quadragesimo anno- QA, 1931) giữa bối cảnh trỗi dậy của các chủ nghĩa phát xít[6].
“Điều chẳng thể nào chối cãi là người ta không thể thay đổi cũng như không thể làm lung lay nguyên tắc quá nghiêm túc này của triết học xã hội: cũng như người ta không thể tước bỏ khỏi tư nhân các quyền hạn mà các tư nhân có khả năng giải quyết bởi chính sáng kiến và những phương tiện của riêng họ để chuyển giao chúng cho tập thể, như vậy sẽ phạm phải một sự bất công, đồng thời gây ra tình trạng xáo trộn một cách tai hại cho trật tự xã hội khi tước đi các chức năng của một đoàn thể thấp hơn và có khả năng chu toàn để giao cho một tập thể rộng lớn hơn và có cấp bậc cao hơn.” (QA 86)
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh, nguyên tắc này được mở rộng ra đến tầm vóc quốc tế bởi Đức Giáo hoàng Gioan XXIII trong thông điệp Hòa bình trên Trái đất (Pacem in terris, 1963) với hai điều kiện: có sự nhất trí của các quốc gia (PT 138); và sự bảo vệ các quyền con người (PT 139). Nói cách khác, Đức Gioan XXIII đề nghị rõ ràng sự thành lập một quyền bính công cộng có chức năng toàn cầu và tuyên bố thêm rằng: “Quyền của cộng đồng thế giới không được hạn chế hành động của các quốc gia trong các lãnh vực riêng biệt của họ và cũng không được thay thế họ. Trái lại quyền bính này phải tìm cách khơi dậy trong mọi quốc gia trên thế giới những điều kiện dễ dàng không những cho các chính phủ của họ mà còn cho các cá nhân và những tổ chức trung gian hoàn thành các chức năng của họ, chu toàn nhiệm vụ của họ và sử dụng các quyền ấy trong những điều kiện an toàn tối đa.” (PT, số 141)
Nếu Công đồng và Đức Phaolô VI ít sử dụng nguyên tắc này hơn, thì Đức Gioan Phalô II đã đề cập cách rõ ràng đến nó trong thông điệp Bách Chu niên (Centesimus annus) như sau: “Một đoàn thể cấp trên không được can thiệp vào sinh hoạt nội bộ của một đoàn thể cấp dưới, bằng cách lấy mất những thẩm quyền của họ; đúng hơn, phải nâng đỡ đoàn thể đó khi cần và giúp đoàn thể đó phối hợp hoạt động của mình với các hoạt động của những đoàn thể còn lại nhằm tạo nên xã hội để phục vụ công ích.” (CA 48)
Đức Biển Đức XVI và Đức Phanxicô mỗi người sẽ sử dụng nguyên tắc này theo cách thức của mình và trong những bối cảnh rất khác nhau. Chẳng hạn, Đức Bênêđíctô XVI nhắc lại mối liên hệ bất khả phân ly với nguyên tắc liên đới vào thời điểm mà Nhà nước bảo hộ bị đe dọa: “Nguyên tắc bổ trợ phải liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại, vì sự bổ trợ mà không có tình liên đới sẽ rơi vào chủ nghĩa địa phương; cũng vậy, sự liên đới mà không có sự bổ trợ cũng rơi vào sự trợ giúp hạ thấp người túng thiếu.[7]” Đối với Đức Phanxicô, ngài mở rộng viễn cảnh khi nói về sự tham gia được nâng thành nguyên tắc của học thuyết xã hội trong quyển Tóm lược học thuyết xã hội năm 2004: “Hệ quả đặc trưng của sự bổ trợ là sự tham gia” (số 189). Chúng tôi sẽ trở lại điểm này.
Một nền tảng phê phán
Nên ghi nhận là các vị giao hoàng đã luôn sử dụng nguyên tắc này với tinh thần phê phán. Đức Lêô XIII đã đưa vào nguyên tắc này giữa lúc chủ nghĩa tư bản toàn thắng coi công nhân như những món hàng và tước khỏi họ mọi quyền hợp tác hay thành lập công đoàn. Đức Piô XI hệ thống hóa nó vào lúc mà các chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy. Ngài còn đích thân viết thêm nhiều đoạn (QA 98-103) khiến Mussolini [nhà độc tài Ý] rất giận dữ. Đức Gioan XXIII mở rộng lập trường giữa lúc chiến tranh lạnh đang ở độ cao nhất. Và Đức Gioan Phaolô II nhắc lại nguyên tắc này để phản đối xu hướng quản lý mọi thứ của các Nhà nước. (CA 15)
Trong một thế giới nơi một số thành phần kinh tế thực thi nhiều quyền lực hơn chính các Nhà nước, phạm vi quan trọng này được Đức Bênêđíctô XVI cập nhật: “Việc xác lập quyền lực chính trị ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế, cùng với những điều khác, là một trong những con đường then chốt để thực hiện theo hướng toàn cầu hóa kinh tế. Đây cũng là cách ngăn chặn nó thực sự làm xói mòn nền tảng của nền dân chủ.” (Caritas in veritate, CV 41). Tương tự như vậy, Đức Phanxicô nhấn mạnh đến tính ưu việt của chính trị so với kinh tế: “Còn chính trị thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại nguyên tắc bổ trợ mang lại sự tự do cho việc phát triển các khả năng hiện có ở mọi cấp độ, nhưng đồng thời đòi hỏi nhiều trách nhiệm hơn đối với công ích về phía những người nắm giữ nhiều quyền lực hơn.” (LS 157)
Trong cách tiếp cận mang tính phê phán này, các vị giáo hoàng có tôn trọng sự tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước mà các ngài đã mất rất nhiều thời gian để thừa nhận không? Các ngài có nhất quán với những gì mà Đức Phaolô VI đã bày tỏ: “Giáo hội không hề có ý định can thiệp vào chính trị của các Nhà nước” (thông điệp Populorum progressio [Phát triển các Dân tộc] 13)? Nếu các ngài can thiệp thì trước hết là nhân danh sự tôn trọng phẩm giá con người, nền tảng này làm cơ sở cho toàn bộ diễn ngôn xã hội của Giáo hội. Nếu theo quan điểm của học thuyết của Aristotle, nhóm lớn là người bảo đảm cho công ích thì theo quan điểm Kitô giáo, phẩm giá của con người được đặt lên trước nguyên tắc gắn kết: “Mục đích của chính quyền là đảm bảo, tăng cường và duy trì sự hoàn thiện cho những người mà chính quyền chịu trách nhiệm.[8]” Bởi vì sự hoàn hảo này của con người có tính chất tương quan: theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có khả năng yêu thương, nghĩa là có khả năng bước vào một mối tương quan.
Chính trên nền tảng tương quan này mà Hồng y Ratzinger liên kết nguyên tắc này với trực giác của Thánh Phaolô về sự bình đẳng của mọi người trước Thiên Chúa (Col 3,11). Niềm đam mê bình đẳng này biện minh cho sự chỉ trích về một tầm nhìn nhất định về quyền lực và sự cám dỗ trở thành ngẫu tượng của nó. Nhưng Giáo hội luôn muốn trở thành một lực đề xuất đảm nhận việc xây dựng công ích bắt đầu từ đáy bậc thang xã hội và cơ cấu cơ bản nhất – gia đình trong các tập thể khác, xã trong liên cộng đồng, khu vực trong Nhà nước, các quốc gia trong mối quan hệ với một cơ quan có thẩm quyền toàn cầu ngày càng trở nên cần thiết. Bởi vì nó tôn trọng những người nhỏ bé, nguyên tắc bổ trợ có nghĩa vụ không can thiệp, bởi vì nó mời gọi họ tham gia vào việc xác định công ích, nó bảo vệ tầm nhìn dân chủ của Nhà nước.
Nền tảng phê bình của nó không ngăn cản nó trở nên thành phần của ba nguyên tắc nền tảng của Học thuyết xã hội của Giáo hội như Đức Hồng y Ratzinger đã cho thấy rõ vào năm 1986: “Ở nền tảng, là phẩm giá con người, được liên kết mật thiết nguyên tắc liên đới và nguyên tắc bổ trợ. Căn cứ vào nguyên tắc liên đới, con người phải đóng góp cùng với đồng loại của mình vào công ích của xã hội, ở mọi bình diện (…) Căn cứ vào nguyên tắc bổ trợ, cả Nhà nước hay bất kỳ xã hội nào không bao giờ được thay thế sáng kiến và trách nhiệm của con người và các cộng đồng trung gian ở cấp độ mà họ có thể hành động được[9]…” Đặc tính nguyên tắc của nó đã cho phép nó khai triển trong không gian chính trị theo nghĩa rộng của từ ngữ này.
Tầm mức chính trị
Kể từ năm 1891, các vị giáo hoàng đã gửi thư cho những người dấn thân trong các cơ cấu cụ thể: các giám mục, các linh mục, các tín hữu giáo dân, và và cuối cùng, kể từ năm 1963, cho tất cả những người thiện chí… ĐGH Lêô XIII ca ngợi công việc khổng lồ của những người Công giáo làm việc xã hội, và bức thư của ngài đã chứng minh những dấn thân của họ, đặc biệt trong các nghiệp đoàn Kitô giáo. Đức Piô XI đã cổ vũ rất nhiều công trình của các bộ phận trung gian (các hợp tác xã, các nghiệp đoàn, các quỹ tương trợ…) và bức thư của ngài đã hợp thức hóa hành động của họ. Đức Gioan XXIII ủng hộ các Giáo hội non trẻ của thế giới thứ ba vào lúc mà tiến trình giải thực dân đang tăng tốc. Đức Gioan Phaolô II cũng làm tương tự với những nước muốn thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản. Đức Phanxicô khuyến khích các phong trào quần chúng đang trải qua nỗi đau của họ về sự biến mất của “các tài sản chung” (nước, không khí, đất đai) cho phép họ sinh tồn. Tóm lại, diễn ngôn xã hội có tầm mức chính trị và nó cũng được tiếp nhận như vậy bởi nhiều Kitô hữu, hay lập lại ý chí của họ muốn đóng góp cho công ích.
Để được công nhận đầy đủ, nguyên tắc bổ trợ cần ba lĩnh vực thích hợp mà chúng ta đã bàn qua để củng cố lẫn nhau. Làm sao nó có thể trở thành một học thuyết nếu nó không được cảm nghiệm bởi các Kitô hữu, kể cả trong các Giáo hội của họ?[10] Làm sao nó có thể duy trì tính phê phán nếu các Kitô hữu không lên án sự tự tôn vinh của mọi quyền lực coi thường những người túng thiếu nhất? Làm sao nó có thể có tác động chính trị nếu nó không được thực hiện cụ thể bởi các Kitô hữu và những người có thiện chí, ở nơi họ làm việc?
Về câu hỏi cuối cùng này, Đức Giáo hoàng Phanxicô khai triển trực giác của Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình liên kết nguyên tắc bổ trợ với sự tham gia trong cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội (Compendium 189). “Sự tham gia đòi hỏi rằng mọi người đều được thông tin đầy đủ về các khía cạnh khác nhau cũng như các rủi ro và cơ hội khác nhau; nó không chỉ giới hạn ở quyết định ban đầu của một dự án, mà còn liên quan đến các hành động theo dõi và giám sát liên tục” (Laudato si’ 183). Nhưng ngài còn đi xa hơn bằng cách phát triển một ý tưởng đã xuất hiện ở Châu Mỹ Latinh[11]: đó là “trao quyền” cho các tổ chức trung gian, bắt đầu từ những cộng đồng nghèo nhất. “Những cá nhân cô lập có thể mất khả năng và tự do của mình để vượt qua logic của lý trí công cụ, và cuối cùng bị phụ thuộc vào một chủ nghĩa tiêu dùng không có đạo đức và vô độ. Các vấn đề xã hội được giải quyết bằng các mạng lưới cộng đồng, chứ không phải bằng tổng số tài sản cá nhân” (LS 219). Với Đức Phanxicô, từ ‘khả năng’ (capacité) trở thành một từ khóa của giáo huấn xã hội (14 lần xuất hiện trong Laudato Si’), điều này thúc đẩy các Kitô hữu phát triển chúng trong một cuộc chuyển đổi vừa sinh thái vừa xã hội.
Bằng cách nhắc nhở giá trị vô điều kiện của con người, khuyến khích giải quyết các vấn đề chính trị gần gũi với những người bị ảnh hưởng nhất và yêu cầu đảm bảo các phương tiện cần thiết cho họ, các Kitô hữu đã đưa ra một nguyên tắc chính trị vượt ra ngoài Giáo hội.
[1] Chantal Delsol, L’État subsidiaire, Puf, 1992, Archives Karéline, 2010, p. 45.
[2] Ibid, p. 60.
[3] “Các nhà lập pháp Đức trong quá khứ đã tránh né trước việc tuyên bố trên danh nghĩa nguyên tắc này vì nội hàm có tính tôn giáo của nó, đặc biệt trong công ước Herrenchiemsee, vào lúc soạn thảo Hiến pháp”. Chantal Delsol, L’État subsidiaire, Puf, 1992, Archives Karéline, 2010, p. 216.
[4] Hiệp ước về Liên hiệp Âu Châu 92/C 191/01, Article 3B. Tuy nhiên, “nguyên tắc bổ trợ tự nó là một nghịch lý, vừa là sự bổ sung cần thiết về phía một cấp cao hơn, thông thường, để thúc đẩy các sáng kiến mà, thực hiện cách cô lập, sẽ không thành công, vừa là sự nhìn nhận trách nhiệm đầy đủ của các cấp khác nhau của một cộng đồng, ở nơi mà nó có thể được thực thi. Nghịch lý này làm nên việc xây dựng Châu Âu.” Julien Barroche, “Le principe de subsidiarité: quelle contribution à la construction européenne?” in Projet, n°340, mai 2014.
[5] Người ta ghi nhận ảnh hưởng, giữa các nhân vật khác, của Đức Cha Von Ketteler – mà nhãn quan xã hội giống trên nhiều điểm với cái nhìn của Althusius- của người theo thuyết Tôma mới Tapparelli và của ĐHY Gibbons- người Mỹ có một kinh nghiệm lâu dài về sự phân bố quyền lực theo chiều dọc.
[6] “Mục đích của mọi can thiệp về mặt xã hội là để giúp các thành viên của bộ phận xã hội, và không phải để phá hủy họ cũng như để làm tiêu tan họ” QA 87
[7] Đức Bênêđíctô nêu rõ rằng “Quy tắc có tính cách tổng quát này phải được nghiên cứu nghiêm túc đặc biệt khi phải đối đầu với những vấn đề liên quan đến những viện trợ quốc tế cho phát triển” (CV, số 58).
[8] Saint Thomas, Contra Gentiles, III, Ch. 71.
[9] Joseph Ratzinger, Instruction sur la liberté chrétienne et la libération, 22 mars 1986, AAS 79 (1987) 554-599.
[10] Đức Piô XII đã đưa ra cuộc thảo luận trên sự bổ trợ trong Giáo hội Công giáo đang nói về thông điệp QA trước các vị tân Hồng Y: “Tất cả các hoạt động tự bản chất đều là bổ trợ: nó phải dùng để nâng đỡ các thành viên của tập thể xã hội, và không bao giờ thủ tiêu họ hay làm tiêu tan họ (…) Những lời thật sự soi sáng, có giá trị cho đời sống xã hội ở mọi tầng cấp, và cũng cho đời sống của Giáo Hội, không gây thiệt hại cho thiết chế phẩm trật của Giáo hội » (AAS., 38, 1946, p. 145). Tuy nhiên, duy chỉ bổn phận không can thiệp mới được ghi vào Bộ Giáo luật năm 1983, đang khi mặc dù sự bổ trợ là một nguyên tắc nền tảng đối với các Giáo hội Tin Lành. Đức Phanxicô đang đưa dự án này trở lại đúng hướng bằng cách giao ngày càng nhiều quyền hạn cho các hội đồng giám mục.
[11] Marie Hélène Bacqué, Carole Biewener, L’empowerment, une pratique émancipatrice, La Découverte, 2013.
Mạc Khải dịch
Nguồn: https://www.doctrine-sociale-catholique.fr/les-principes/50-subsidiarite#sdfootnote10sym