Liên đới

Bertrand Cassaigne, SJ
02/12/2011
Mai Khôi dịch

Bác ái là nguồn gốc. Liên đới là sự thể hiện của nó : nguyên tắc của hiểu biết và hành động, biểu lộ phong cách mà phẩm giá của mỗi người được công nhận, vượt ra ngoài những bất bình đẳng. Cùng lúc, đã có sự công nhận các khát vọng và sự thực hiện qua một luật pháp và những thiết chế.

Liên đới cống hiến trọn vẹn sự phát triển của nó cho bác ái. Bác ái cống hiến hết ý nghĩa của mình cho liên đới.

Khi Giáo Hội Công Giáo tìm cách viết ra những nền móng của giáo huấn về phương diện xã hội dưới hình thức một « chủ thuyết », Giáo Hội đã đưa lên đầu những nguyên tắc trong đó có hai nguyên tắc « gắn liền chặt chẽ » với nhau ; đó là : nguyên tắc liên đới và nguyên tắc bổ trợ.

« Căn cứ vào nguyên tắc thứ nhất, con người phải cùng với tha nhân đóng góp vào công ích của xã hội, ở mọi tầng cấp. Từ đó, chủ thuyết của Giáo Hội đối nghịch với tất cả mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa trên mặt xã hội hay chính trị.

Căn cứ vào nguyên tắc thứ nhì, kể cả quốc gia hay bất cứ xã hội nào cũng không được thay thế sáng kiến và trách nhiệm của con người và của các cộng đồng ở khu vực nơi họ có thể hành động… Từ đó, chủ thuyết của Giáo Hội đối nghịch với mọi hình thức tập thể hóa » (Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị về Tự Do Kitô Giáo và Giải Phóng (Liberté chrétienne et libération), số 73).

1. Truyền thống liên đới

Việc sử dụng từ ngữ liên đới tương đối mới mẻ trong ngôn ngữ của Giáo Hội, thường hay nói đến bác ái, hiệp thông, gia đình nhân loại – giờ vẫn còn tiếp tục được sử dụng1.

Phải nói là trong thời gian dài từ ngữ này hầu như thuộc đặc quyền của lãnh vực pháp lý : những con nợ được coi như liên đới (kết thành một khối) khi mỗi người phải hoàn thành những nhiệm vụ giống nhau.

Sự thích hợp hóa của từ liên đới trong lãnh vực xã hội trước tiên đã được tiến hành bởi các nhà văn kitô giáo, để nói về tinh thần đoàn kết nối liền chúng ta với tha nhân : « Tình liên đới (xin được phép sử dụng từ ngữ này của ngành pháp luật)… sự hợp nhất lẫn nhau của chúng ta là kết quả của sự hợp nhất giữa chúng ta với Thiên Chúa », triết gia Joseph de Maistre đã viết vào đầu thế kỷ XIX2. Sau đó, triết gia Charles Renouvier đã viết thêm : « Rất mực con người, liên đới phá hủy từ gốc rễ lòng ích kỷ, rất mực thần thánh, liên đới gắn liền động thái của mỗi người với lề luật vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã phán truyền cho động thái của tập thể con người »3.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, việc viện dẫn từ ngữ liên đới trước nhất được các nhà tư tưởng sử dụng vì họ muốn đoạn tuyệt với cái nhìn mang tính tôn giáo. « Tôi muốn thay thế từ ngữ bác ái của Kitô giáo bằng từ ngữ liên đới mang tính con người », Léon Bourgeois, một chính trị gia người Pháp, một trong những người đề xướng « chủ nghĩa liên đới » đã viết. Trường phái này chủ trương dung hòa siêu hình học với khoa học : nó học hỏi từ khoa học sinh vật sự cần thiết của sự tương thuộc (x. liên đới cơ học và liên đới hữu cơ của Emile Durkheim), nó giúp hiểu biết sự chuyển hóa từ sự liên đới áp đặt sang sự liên đới lựa chọn. Từ ngữ liên đới ít mang tính lý tưởng hơn từ ngữ huynh đệ, ít tối nghĩa hơn từ ngữ bác ái (được đồng hóa với từ thiện, thương người, cứu trợ), sự liên đới hàm ý một món nợ lẫn nhau và như thế, sự cam kết để xây dựng một luật pháp tích cực : chúng ta là những con nợ không đồng đều đối với xã hội ; liên đới kêu gọi phải có một sự công bằng lớn hơn. Trái với một sự bình đẳng trừu tượng (giữa những con người vốn đã bất bình đẳng), cần phải công nhận rằng có những người nợ nhiều hơn người khác và pháp luật phải sửa chữa những bất bình đẳng này.

Tất cả các cơ cấu công cộng về cố kết (từ an sinh xã hội đến việc đấu tranh chống thải loại) là kết quả của cái nhìn này.

2. Tái điều chỉnh ngôn ngữ của Giáo Hội

ĐGH Gioan Phaolô II, rất ấn tượng về kinh nghiệm Ba Lan về cuộc tranh đấu của công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc), trong đó, tình liên đới giữa các công nhân đã được rèn luyện trong cuộc chiến đấu để các quyền của họ phải được công nhận, sẽ tái thích ứng từ ngữ này trong ngôn ngữ của Giáo Hội. Từ ngữ này đã được sử dụng bởi Công Đồng Vaticanô II (Gaudium et spes), đã nêu lên giữa những « dấu chỉ thời đại », « ý nghĩa ngày càng gia tăng và tất yếu của sự liên đới giữa các dân tộc » (GS 46) và phê phán « một thứ đạo đức cá nhân chủ nghĩa, quên đi những liên đới xã hội được thể hiện trong các định chế, dùng để cải thiện các điều kiện sống của tất cả » (GS 30). ĐGH Phaolô VI, cũng vậy, trong thông điệp Populorum progressio nhấn mạnh những khát vọng về một thế giới liên đới hơn (PP 43PP 64) : « Tình huynh đệ giữa các dân tộc » cam kết cho một « nghĩa vụ liên đới, công bằng xã hội, bác ái phổ quát ».

Nhưng chính là người kế vị ngài sẽ phổ biến rộng rãi. Sự liên đới nảy sinh trước hết từ một ghi nhận, nhưng bằng một phương cách có thể là ít mang tính « duy khoa học »4 hơn là cách của những người chủ trương liên đới đầu tiên, ghi nhận của sự tương thuộc  : « của các quan hệ mạnh và chặt chẽ », « của các năng lực tích cực được tạo ra » ở ngay điểm này (Sollicitudo rei socialis 40). Thông điệp Sollicitudo rei socialis là thông điệp của liên đới. Từ ngữ này đã được sử dụng 20 lần trong bản thông điệp này.

ĐGH Gioan Phaolô II chào mừng « các chỉ dấu tích cực » được mang lại bởi « sự liên đới của những người nghèo với nhau, những hành động trợ giúp lẫn nhau, những biểu hiện trên lãnh vực xã hội… » (SRS 39). Cũng vậy, sự kiện con người nam và nữ, trên khắp thế giới, « cảm nhận như đều liên quan đến bản thân mình những bất công và những vi phạm các quyền con người là một dấu hiệu khác » (SRS 38).

Nhưng, xa hơn sự ghi nhận, chính là nhãn quan của con người mới là vấn đề : « Xa hơn các quan hệ con người, rất mạnh, rất chặt, một mô hình hợp nhất nhân loại đã hiện hình » (SRS 40) : « Sự liên đới giúp chúng ta nhìn thấy tha nhân, dân tộc hay quốc gia – không như một dụng cụ mà người ta khai thác các khả năng, nhưng như đồng loại của chúng ta » (SRS 39).

Đây không phải chuyện tình cảm, « chuyện cảm giác hay mềm lòng nông cạn, mà là một quyết tâm kiên trì làm việc cho công ích, nghĩa là cho thiện ích của tất cả và của mỗi người, bởi vì tất cả chúng ta đều thật sự có trách nhiệm với tất cả mọi người » (SRS 38). Trách nhiệm này qua sự soạn thảo một luật pháp được các cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm. Trên chiều hướng này, giáo huấn của Giáo Hội ghi nhận phần đóng góp của trường phái liên đới. Tình liên đới phải đi qua công bằng xã hội (Thông điệp của ĐGH Gioan Phaolô II gửi Hội Nghị Lao Động Quốc Tế, 9) ; Nó cũng phải đi qua đích thực một tổ chức trao đổi « giữa các dân tộc, để ra khỏi những ngõ cụt của sự phát triển thất bại (ĐGH Phaolô VI, PP 64).

Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình đã đề nghị, ngay từ những năm 70, nên dựng nên một  « loại thuế liên đới toàn cầu5 ». Từ ngữ thuế, khiến nhiều người không ưa, thể hiện sự quan trọng của tầm vóc chính trị của liên đới. Cũng vậy, trong văn kiện xuất bản vào tháng 10/2011, Công Lý và Hòa Bình đã lập lại lời kêu gọi thành lập một « Chính quyền công cộng toàn cầu » có nhiệm vụ thực hiện một sự liên đới đích thực – mà không phải là chuyện tình cảm.

3. Truyền thống Thánh Tôma

Sự quan trọng này được trao cho « nguyên tắc liên đới » vừa là hiện đại, vừa là truyền thống. Các nhà thần học kitô giáo – trong đó có Thánh Tôma – đã luôn nhắc lại là phẩm giá đầu tiên của mọi con người (được Thiên Chúa sủng ái) đã không chỉ là một đơn tử lẻ loi. Của cải của nó không có mâu thuẫn với của cải của xã hội –và ngược lại. Đối mặt với một chủ nghĩa tự do tuyệt đối, Giáo Hội đã nhấn mạnh về lãnh vực cộng đồng (x. kể từ Giáo Hội đầu tiên, Cv 4) và về « sự hiệp thông » mà mọi người đều được mời gọi.

Hình ảnh Nhiệm Thể (x. 1Cr 12), mà tất cả (chúng ta) là chi thể – từ những người « xứng đáng » nhất đến những kẻ đen tối nhất- là biểu hiện của tinh thần liên đới này. Nhưng hình ảnh này đã có thể được trình bày như lý tưởng của một loại trật tự xã hội và xóa đi cái tầm vóc công bằng phải thực hiện.

Khi dùng lại từ ngữ liên đới, Giáo Hội công nhận sự đòi hỏi này. Nhưng nền móng của sự tương thuộc  giữa những con người với nhau không chỉ trong bản chất con người (hay trong sự tìm kiếm một sự hữu hiệu), cũng không trong một khế ước xã hội, nhưng đúng là trong dự án của Thiên Chúa. Và Giáo Hội nhấn mạnh trên sự bổ túc lẫn nhau giữa liên đới và bổ trợ. Sự liên đới « lên ngôi » là nguồn gốc của sự thừa nhận, của quyền hạn và bổn phận. Nó đã hình thành qua các phong trào xã hội cũng như qua những quy định chung. Nhưng nó cũng luôn cần được tiếp sinh khí –nó sẽ sơ cứng nếu chỉ là máy móc- từ cơ sở, trong kinh nghiệm những quan hệ thắt nối trong hợp tác và trong hành động, cũng như trên thượng tầng, tràn ra khỏi sự nhỏ hẹp của các tập thể và của các quốc gia.

4. Lao động và quốc gia

ĐGH Gioan Phaolô II đã đặc biệt nhấn mạnh trên hai chỗ quan trọng : sự liên đới bằng lao động và vai trò của quốc gia. Ngài mở rộng sự thừa nhận « liên đới rộng lớn của các công nhân » (LE 8), quá thường xuyên bị xí nghiệp ngược đãi, đến các người thất nghiệp, đến những người trẻ không có việc làm… (x. Thông điệp gửi Văn phòng quốc tế lao động ILO). Ngài nhắc là quốc gia phải chăm lo cách đặc biệt cho những người bé mọn và những người nghèo khổ nhất. « Con người càng dễ bị tổn thương, họ càng cần có sự quan tâm của những người khác và của sự can thiệp của các quyền lực công cộng… Quốc gia có nhiệm vụ xác định khung cảnh pháp lý cho sự phát triển những quan hệ kinh tế » (CA 10CA 15).

ĐGH Gioan Phaolô II xác quyết, sự liên đới chắc chắn là một « nhân đức kitô giáo » (SRS 40). Dấu hiệu công nhận một thế tương thuộc, một món nợ lẫn nhau, liên đới dẫn tới việc xây dựng một đạo luật và một cuộc đấu tranh cho công bằng. Nhưng sau cùng, nó là sự thể hiện rất cụ thể của bác ái.

« Dưới ánh sáng đức tin, liên đới có xu hướng vượt lên trên chính nó, để đảm nhận những chiều kích đặc biệt của Kitô giáo là lòng biết ơn, sự tha thứ và sự hòa giải hoàn toàn. » (SRS, 40). Bởi vì nó kêu gọi một sự trở lại cá nhân về thái độ và một cuộc tranh đấu chống lại những « cơ chế đồi bại » và những « cấu trúc của tội lỗi » (id)

Trong thông điệp gần đây nhất của ngài, ĐGH Biển Đức XVI đã không ngần ngại nối liền tất cả các từ ngữ « Liên Đới trong một tình Huynh Đệ chung… Bác ái kitô giáo là lực chính phục vụ cho phát triển (CV 13CV 13) », ngài viết trong lúc đọc lại thông điệp Populorum progressio. Có thê nói là sự Liên Đới là một sự thể hiện của « tình yêu trong chân lý », tránh cho nó không « rơi vào tình trạng đa cảm ». Và ĐGH nhấn mạnh đến chiếc chìa khóa là sự liên đới để đáp ứng với cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay.

—–

1  « Nguyên tắc liên đới, như hiện nay người ta nói, mà tôi đã nhắc lại giá trị của nó trong Sollicitudo rei socialis trong trận tự nội bộ của mỗi quốc gia cũng như trong trật tự quốc tế, xuất hiện như một trong những nguyên tắc nền móng của tổ chức chính trị và xã hội. Nó đã được ĐGH Lê-ô trình bày dưới cái tên « tình bạn » mà người ta tìm thấy trong triết học Hy-lạp. ĐGH Piô XI định nghĩa nó là « bác ái xã hội » và ĐGH Phaolô VI, mở rộng khái niệm theo những tầm vóc thế giới của vấn đề xã hội, đã nói đến « văn minh tình yêu » (Centesimus annus CA 10).
2    J. de Maistre, Les soirées de Saint-Pétersbourg, ou Entretiens sur le gouvernement temporel de la Providence, 1821.
3   Charles Renouvier, Manuel de philosophie moderne, 1842.
4  Nền móng của thế tương thuộc, đó là bản chất, khuôn mẫu, là nền móng của sự phối kết sâu kín các bộ phận trong một cơ thể như sinh lý học đã chỉ rõ.
5 Site du Vatican: Note du Conseil pontifical “Justice et Paix”