Sự công nhận và tôn trọng phẩm giá của con người là trung tâm tư tưởng xã hội của Giáo Hội. Công Đồng, đặc biệt là Gaudium et spes, nhấn mạnh đến tính chất bất khả nhượng của phẩm giá này, đến sự hợp nhất tinh thần và thể xác của con người liên quan đến môi trường, về chiều kích cốt lõi xã hội và cộng đồng.
Con người và sự công nhận phẩm giá của con người là trung tâm của tư tưởng xã hội và cũng là của toàn bộ tư tưởng luân lý của Giáo Hội. Tại Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ về « Giáo Hội trong thế giới ngày nay », Gaudium et spes(GS), đã khai triển một bản « hiến chương » thực sự về thuyết nhân vị Kitô giáo. Chương thứ nhất mang tên « phẩm giá của con người » (GS 12-22) mô tả dài về « quan niệm đúng đắn về con người và về giá trị độc nhất vô nhị của con người », như Đức Gioan Phaolô đã nói trong Centesimus annus « dùng làm bộ khung và, cách nào đó làm kim chỉ nam cho thông điệp và cho toàn bộ học thuyết xã hội của Giáo Hội » (CA 11). Như vậy, Công Đồng xác định rằng những tín hữu và những người không phải là tín hữu thường đồng ý trên điểm này : « Mọi vật trên địa cầu phải được quy hướng về con người như là trung tâm và đỉnh cao của vạn vật » (GS 12). Phẩm giá con người nằm ở nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội và ấn định ra các nguyên tắc chỉ đạo cho nó.
Cách nhìn này về nhân vị có thể được mọi người tiếp cận và đồng thời cũng là kết quả của lý trí được soi sáng bởi đức tin và mặc khải, vì « mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể » (GS 22). Sự tôn trọng con người trong tính chất độc nhất và tính chất thiêng liêng của con người là một giá trị đang được chấp nhận trong thời đại ngày hôm nay. Nhưng đối với Giáo Hội, sự công nhận này còn được hỗ trợ bởi nhiều lý do thần học : con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa ; Con Thiên Chúa nhập thể đã trở thành con người thực sự và đã tôn vinh thân phận làm người của chúng ta ; nhân loại (và mỗi con người) đã được cứu chuộc bởi cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô, chính Người đã mở ra cho chúng ta con đường của « sự thần hóa » : ơn gọi của chúng ta bao hàm cả một chiều kích siêu việt, là [được thông phần vào] sự sống với Thiên Chúa.
Phẩm giá bất khả nhượng của nhân vị
Trong cách nhìn về con người, Công Đồng đã nhấn mạnh trước hết rằng con người có một phẩm giá bất khả nhượng bởi vì mọi người đều đã được « tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa » (GS 12, St 1,26). Qua luận đề Kinh Thánh và thần học Giáo phụ về hình ảnh Thiên Chúa, Giáo hội xác quyết cách mãnh liệt phẩm giá này và tính cách thiêng liêng của mỗi con người, bằng chính sự kiện là một con người. Tuyên bố này đã có nhiều hệ quả. Trước tiên, nó chỉ rõ rằng ý nghĩa của con người chỉ có thể thực sự được hiểu biết trong mối tương quan với Thiên Chúa, là nguồn gốc và chung cuộc của toàn bộ đời sống. Nó cũng nhấn mạnh rằng phẩm giá này của con người đến từ việc sáng tạo đã được Đấng Tạo Hóa ban cho. Ngoài ra, dù con người có ở tình trạng nào đi nữa, Kinh Thánh khẳng định rằng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người là bất biến. Trong viễn cảnh nhân học này, khái niệm hình ảnh Thiên Chúa cho thấy rằng mọi con người chia sẻ cùng một thân phận và cho phép chúng ta đặt ra một nền tảng vững chắc cho giá trị của phẩm giá con người, vượt ra ngoài mọi quy ước xã hội giản đơn. Đó là điều mà giáo huấn xã hội (GHXH) của Giáo Hội thực hiện khi nó ủng hộ việc bảo vệ và cổ võ các quyền con người « phổ quát và bất khả xâm phạm » (GS 26) trên nền tảng thần học này (PT 8-45, LE 16-22).
Viễn cảnh này cũng hàm ý rằng phẩm giá của con người không tùy thuộc hoàn toàn vào những thành công hay khả năng của mỗi con người, mà tùy thuộc vào tình yêu riêng ban của Thiên Chúa. Những hệ quả đạo đức của lời tuyên bố này quả là quan trọng trong các cuộc tranh luận hiện nay. Người ta có thể tìm lại được những liên hệ đó trong các lập luận chống lại việc phá thai, an tử, nhân bản vô tính, trong việc bảo vệ sự chăm sóc các trẻ sơ sinh khuyết tật (GS 27). Trong khi suy nghĩ những câu hỏi về công bằng kinh tế và xã hội, lời tuyên bố này còn biện hộ cho việc không kỳ thị dựa trên nguồn gốc hay khả năng, cũng như sự quan tâm và tôn trọng mọi người, bất kể các thành công của họ (người khuyết tật, người không có nguồn lực, người vô gia cư, v.v.) (GS 29).
Ngoài ra, những hàm ý nhân học của đức tin cũng mở rộng ra đến khái niệm về bình đẳng nền tảng của mọi con người. Sự nhập thể nơi Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô đã nâng con người lên ngang tầm hữu thể của Người là một nền tảng nữa cho sự bình đẳng giữa tất cả mọi con người với nhau. Tất cả mọi người, theo một cách thức nào đó, đã được nối kết bởi Đức Kitô, Đấng đã chia sẻ kiếp người với họ ngay cả trong chính sự chết. « Khi nhập thể, Con Thiên Chúa cách nào đó đã liên kết với tất cả người » (GS 22). Khái niệm này vẽ ra một chương trình tương phản tổng quát đối mặt với quan niệm theo chủ nghĩa tự nhiên hay tâm lý về con người, với chủ trương tạo ra những sự bất bình đẳng dựa theo năng khiếu hay sự phô trương khả năng. Trong Đức Kitô, tất cả mọi con người đều có cùng một phẩm giá như nhau, bất kể tình trạng, tài năng hay khả năng của họ.
Một nhân vị nhập thể trong tương giao với môi trường
Tập hợp thứ hai các dữ kiện nhân học được Công Đồng làm rõ là điều kiện thể xác của người nam và người nữ. Con người được « nhập thể ». « Là một chủ vị duy nhất gồm có thể xác và linh hồn, con người tổng hợp nơi bản thân các yếu tố thuộc thế giới vật chất để từ đó, chính con người làm cho những yếu tố ấy đạt tới đỉnh cao và trở nên lời ca tụng không ngừng dâng lên Đấng Tạo Hóa (Đn 3, 57-90). Vì thế, con người không được khinh miệt đời sống thể xác » (GS 14). Nói tới đề tài nhập thể hay tới sự hợp nhất thân xác và linh hồn con người có nghĩa là thân xác chúng ta không phải đơn giản là một đồ phụ tùng hay một cái vỏ bọc bên ngoài. Người đương thời với chúng ta đã trở nên nhậy cảm đối với sự quan trọng của thân thể, nhưng lại thường không đối xử với thân xác một cách kính trọng. Thân xác này rất cần thiết để trở thành những nhân vị hội nhập. Cái gì liên quan đến thân xác cũng đồng thời liên quan đến toàn bộ con người, bởi vì chính qua thân xác mà chúng ta bước vào mối quan hệ với tha nhân và với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài mặc lấy hình dạng con người để chúng ta có thể biết về tình yêu Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta, « Đền Thờ của Chúa Thánh Thần », đó là những biểu tượng của nội tâm chúng ta. Giáo huấn của Giáo Hội đã rút ra từ đó những hệ quả quan trọng trong các lãnh vực đạo đức sinh học, đời sống tình dục và gia đình, cũng như việc tố cáo sự tra tấn, hủy hoại thân thể, bán dâm và một cách tổng quát tất cả những điều kiện sống hay lao động đê tiện (GS 27).
Có một cuộc sống thể xác còn có nghĩa là chúng ta phải thận trọng về những giới hạn và tiềm lực những khả năng sinh học của chúng ta. Các độc chất ma túy chẳng hạn không tôn trọng thể xác chúng ta, và chúng ta có trách nhiệm phải bảo vệ sức khỏe của chúng ta bằng cách tôn trọng toàn vẹn thể xác chúng ta. Sau cùng, với tư cách một nhân vị có thân xác, chúng ta là thành phần của thế giới vật chất và của một môi trường sinh thái, nơi chúng ta có những quan hệ hệ thống. Điều này đòi hỏi chúng ta ghi nhận trách nhiệm của chúng ta dể tiếp tục biến thế giới thành một nới khả dĩ ở được. Đối với giáo huấn xã hội của Giáo Hội, những phát triển của khoa học và kỹ thuật phải được xét đoán tùy theo hậu quả của chúng trên cuộc sống thể xác cộng đồng. Chúng ta phải tiên liệu những hậu quả tiêu cực có thể xẩy ra của những khám phá kỹ thuật trên đời sống và trên môi trường, vì chúng ta có trách nhiện trên mặt luân lý về chuyện này.
Một nhân vị chủ yếu mang tính tương giao
Một tập hợp các ghi chú nhân học thứ ba, được nêu ra tại Công Đồng, đụng chạm đến chiều kích tương giao của con người. Bởi vì nếu con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, thì đây là vị Thiên Chúa Ba Ngôi, được mặc khải trong sự hợp nhất yêu thương của Ba Ngôi. « Thiên Chúa là tình yêu » (1 Ga 4, 8, 16), là một Thiên Chúa tự hiến trọn vẹn, Người làm sáng tỏ về ý nghĩa của con người để con người cũng tìm được sự trọn hảo của mình trong tình yêu và trong việc trao đổi giữa sự trao ban và lãnh nhận. « Nét tương đồng giữa sự hợp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa » và sự hợp nhất giữa con người với nhau « cho thấy con người, tạo vật duy nhất trên trần gian được Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lại bản thân khi chân thành trao ban chính mình một cách vô vị lợi » (GS 24, CA 41). Công đồng đã triển khai hệ quả nhân học này thông qua quan niệm xã hội và cộng đồng của con người : nếu con người là thiêng liêng thì con người cũng mang tính xã hội và phẩm giá của con người chỉ có thể được hiện thực và bảo vệ trong một cộng đồng nhân loại trao đổi và yêu thương lẫn nhau. Như Đức Biển Đức XVI nhắc lại trong Caritas in veritate : « Là thụ tạo mang bản chất tinh thần, con người hiện thực chính bản thân mình trong các mối tương giao liên nhân vị (CV 53). « Đời sống xã hội đối với con người không phải là một điều gì đó được thêm vào bên ngoài, nên nhờ biết trao đổi với người khác, nhờ phục vụ lẫn nhau, và nhờ đối thoại với anh chị em, con người mới làm thăng tiến tất cả các khả năng của mình và có thể đáp trả ơn gọi của mình » (GS 25).
Trong viễn cảnh này, phương cách mà chúng ta tổ chức xã hội trong lãnh vực kinh tế, chính trị hay pháp luật sẽ tạo thuận lợi trực tiếp hay không cho sự tôn trọng phẩm giá của con người và khả năng của những cá nhân lớn lên trong một cộng đồng. « Nhân vị, tự bản chất, hoàn toàn cần đến đời sống xã hội. Nhân vị chính là và phải là nguyên lý, chủ thể và cứu cánh của tất cả mọi định chế xã hội » (GS 25). Do đó, một tầm nhìn nhân vị đích thực không thể đặt trên một con người đơn lẻ, cũng không thể giới hạn vào một định nghĩa về con người bởi những phẩm chất nội tại của họ, nhưng phải có tính tương quan và kêu gọi một nền đạo đức của tình liên đới, của sự tình « không bao giờ có người này không cần có người kia ». GHXH của Giáo Hội đã rút ra rất nhiều hệ quả. Trong lãnh vực kinh tế chẳng hạn, GHXH mời đặt câu hỏi liệu sự phát triển kinh tế có làm tăng giá trị hay đe dọa đời sống mà chúng ta đang sống với người khác trong xã hội không. GHXH còn kêu gọi phải quan tâm đến toàn thể cộng đồng nhân loại, đặc biệt chú ý đến những quốc gia nghèo nhất. Về tình liên đới căn bản nàycủa con người với nhau này, Giáo Hội xác định rằng « tất cả mọi người đều có quyền tham gia vào đời sống kinh tế của xã hội ». Đòi hỏi của công lý cơ bản là không ai bị loại khỏi cơ hội tham gia vào sinh hoạt của xã hội, nhất là nhờ quyền lao động, cũng là một phương cách kết hợp với công trình sáng tạo của Thiên Chúa. (GS 67 ; LE 4).
Một cách tổng quát, nguyên tắc đặt con người làm trung tâm trong việc tổ chức đời sống xã hội là nguồn gốc của các nguyên tắc liên đới và bổ trợ, là hai trụ cột cơ bản của học thuyết xã hội. Nhờ tình liên đới, con người cùng với những người khác phải góp phần vào công ích của xã hội. Nhờ tính bổ trợ, cả Nhà nước lẫn bất kỳ xã hội nào đều không được thay thế sáng kiến và trách nhiệm của những con người và cộng đồng trung gian ở trình độ mà họ có thể hành động. Theo nguyên tắc này, Nhà nước và xã hội cũng phải giúp đỡ các thành viên trong đoàn thể xã hội.
Sau cùng sự tôn trọng phẩm giá của mọi con người kêu gọi phải đặc biệt chú ý tới những người nghèo khổ và những người yếu thế ; Như Đức Gioan Phalô II đã nhắc : « Công bằng một xã hội được đo lường bằng việc cư xử của xã hội đối với người nghèo ». Các môn đệ Đức Kitô cũng được mời gọi « một sự chọn lựa hay một tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo » (SRS 42). Họ còn được mời gọi đánh giá các lối sống khác nhau, chính trị và những định chế xã hội tùy theo sự tác động của chúng lên người nghèo. « Ơn gọi Kitô giáo về sự sự phát triển giúp tiếp tục sự thăng tiến mọi người và con người toàn diện » (CV 18).
Mạc Khải dịch
Nguồn: https://www.doctrine-sociale-catholique.fr/les-principes/52-dignite-de-la-personne-humaine